30 năm ứng phó với dịch HIV/AIDS: Nhiều thành tựu, sáng kiến đáng tự hào

19/11/2020 16:12

Nhìn lại chặng đường 30 năm ứng phó với dịch HIV/AIDS, Việt Nam đã có nhiều sáng kiến và đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào, nhân dịp Tháng Hành động quốc gia phòng, chống HIV/AIDS, phóng viên Trang tin Tiếng Chuông – Trang tin của UBQG Phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm có dịp trao đổi với PGS. TS Nguyễn Hoàng Long, Cục trưởng Cục Phòng, chống HIV/AIDS (Bộ Y tế) về những nỗ lực, thành tựu và khó khăn trong công tác này.

 

 PGS. TS Nguyễn Hoàng Long, Cục trưởng Cục Phòng, chống HIV/AIDS. Ảnh: Thùy Chi

Những điểm sáng trong công tác phòng, chống HIV/AIDS

Trải qua 30 năm ứng phó với dịch HIV/AIDS tại Việt Nam, xin ông cho biết những sáng kiến, thành tựu nào đã giúp cho Việt Nam trở thành điểm sáng trong công tác phòng, chống HIV/AIDS?

PGS. TS Nguyễn Hoàng Long: Theo tôi, có những lý do sau đây mà cộng đồng quốc tế đánh giá rất cao công tác phòng, chống HIV/AIDS tại Việt Nam. Thứ nhất, Việt Nam có cam kết chính trị rất mạnh mẽ đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS. Việt Nam thường xuyên là quốc gia hưởng ứng các mục tiêu, chủ trương, chiến lược của cộng đồng quốc tế liên quan đến phòng, chống AIDS. Cụ thể, như Việt Nam là quốc gia đầu tiên hưởng ứng mục tiêu 90-90-90 của Liên Hợp Quốc.

Thứ hai, Việt Nam thường xuyên triển khai rất kịp thời, sáng tạo các giải pháp, chuyên môn và có hiệu quả rất cao. Chẳng hạn như, về xét nghiệm chúng ta đã có xét nghiệm HIV tại cộng đồng, tự xét nghiệm HIV, xét nghiệm HIV cho bạn tình và bạn chích, xét nghiệm HIV sớm…

Về dự phòng, chúng ta có phân phát bao cao su, bơm kim tiêm, điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế Methadone, đặc biệt gần đây chúng ta đã triển khai được điều trị dự phòng trước phơi nhiễm (PrEP).

Về công tác điều trị, chúng ta đã triển khai điều trị ngay khi phát hiện một người nhiễm HIV, tuyên truyền vận động tuân thủ điều trị, cấp phát thuốc nhiều tháng cho người nhiễm HIV trong tình hình dịch bệnh COVID-19…những sáng kiến, mô hình đó đã mang lại hiệu quả rất cao. Cụ thể là Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có chất lượng điều trị tốt trên thế giới.

Hiện chúng ta đã kiểm soát được tình hình dịch tốt, trong tổng số những người nhiễm HIV thì có đến 96% bệnh nhân là đã đạt tải lượng dưới ngưỡng ức chế. Đáng nói là trong hơn 10 năm qua thì chúng ta đã giảm được tình hình lây nhiễm HIV xuống 2/3; như vậy đã giảm được số nhiễm HIV, số người mắc AIDS và số người tử vong do AIDS.

Thứ ba, trong bối cảnh nguồn tài trợ từ các tổ chức quốc tế cho công tác này cắt giảm, Việt Nam đã kịp thời có những giải pháp tài chính để bù đắp, đặc biệt trong đó ngân sách trung ương, ngân sách địa phương và bảo hiểm y tế đã tham gia vào công tác điều trị HIV/AIDS.

Cùng với Anh, Đức, Thụy Sĩ, Việt Nam đã được đánh giá là một trong 4 quốc gia có chất lượng điều trị HIV/AIDS tốt nhất thế giới. Đây là điều rất đáng tự hào, xin ông cho biết việc này có hỗ trợ chúng ta đạt được mục tiêu 90-90-90 đã cam kết với Liên Hợp Quốc?

PGS. TS Nguyễn Hoàng Long: Chất lượng điều trị HIV/AIDS được đo lường bằng số lượng tải lượng virus HIV trong máu. Hiện có 2 mức tải lượng virus HIV trong máu: Dưới 1.000 bản sao/ml máu được coi là “dưới ngưỡng ức chế” và dưới 200 bản sao/ml máu gọi là “không phát hiện được”. Một người nhiễm HIV được điều trị ARV, khi tải lượng virus dưới ngưỡng phát hiện sẽ vừa bảo vệ sức khoẻ cho người nhiễm HIV, vừa ngăn ngừa lây nhiễm HIV sang bạn tình thông qua con đường tình dục.

Trong các mục tiêu 90-90-90 mà Liên Hợp Quốc đặt ra cho thấy, thế giới đang phấn đấu 90% số người nhiễm HIV biết được tình trạng bệnh của mình; 90% số người đã chẩn đoán nhiễm HIV được điều trị bằng thuốc kháng virus và 90% số người nhiễm HIV đã được điều trị bằng thuốc kháng virus (ARV) kiểm soát được số lượng virus ở mức thấp để sống khỏe mạnh và giảm nguy cơ lây truyền HIV cho người khác.

Đối với mục tiêu thứ 3, thế giới phấn đấu là 90% người điều trị HIV đạt được tải lượng dưới ngưỡng ức chế. Trong khi đó, rất vui là Việt Nam đã vượt quá mục tiêu này, dưới ngưỡng ức chế đã đạt được 95%, và dưới ngưỡng phát hiện đã đạt được 94%. Nói cách khác, con số này có nghĩa là 94% bệnh nhân đang điều trị HIV/AIDS ở Việt Nam không còn khả năng lây nhiễm HIV trong cộng đồng. Đây là con số rất quan trọng, nhờ đó khuyến khích người dân, những người có nguy cơ cao đi xét nghiệm HIV sớm. Và những người không may nhiễm HIV tham gia tiếp cận điều trị ARV ngay. Từ đó, tăng cường truyền thông để cho người dân tiếp tục tham gia và sử dụng các dịch vụ HIV/AIDS. Việc này giúp cho chúng ta đạt được mục tiêu 90 thứ nhất và 90 thứ hai.

Việt Nam sẽ sớm đạt được mục tiêu kết thúc dịch AIDS

Xin ông cho biết chúng ta còn những khó khăn nào cần phải vượt qua trong công tác phòng, chống HIV/AIDS? Theo ông, những giải pháp để vượt qua khó khăn đó là gì?

PGS. TS Nguyễn Hoàng Long: Mặc dù dịch HIV/AIDS tại Việt Nam đã giảm được 2/3 dịch, tuy nhiên so với mục tiêu cơ bản để chấm dứt đại dịch AIDS thì chúng ta vẫn còn ở khá xa. Muốn chấm dứt dịch AIDS tại Việt Nam chúng ta phải hạ được số nhiễm mới phát hiện HIV hằng năm xuống 1.000 trường hợp, trong khi đó chúng ta đang ở mức 10.000.

Hiện các yếu tố nguy cơ khác đang diễn biến phức tạp hơn, khiến cho công tác phòng, chống HIV/AIDS vẫn gặp nhiều khó khăn. Chẳng hạn như mức độ lây nhiễm HIV trong nhóm quan hệ tình dục đồng tính ngày càng gia tăng, bên cạnh đó tình trạng sử dụng ma túy tổng hợp tăng cũng làm cho yếu tố lây nhiễm HIV ngày càng phức tạp.

Ngoài ra, vẫn còn một số thành phần chủ quan với dịch HIV/AIDS với tư tưởng phóng khoáng, không chủ động phòng bệnh vì nghĩ rằng dịch bệnh HIV/AIDS đã giảm mạnh, không còn nguy hiểm nữa.

Vấn đề nữa là trong bối cảnh nguồn lực tài chính vẫn đang phải dựa nhiều vào quốc tế thì Việt Nam vẫn đang rất hạn chế về nguồn lực. Do đó, chúng ta vẫn cần thay đổi để tăng nguồn lực trong nước bù đắp được những viện trợ cắt giảm.

Về giải pháp, chiến lược, mới đây Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược Quốc gia chấm dứt đại dịch AIDS tại Việt Nam, trong đó mục tiêu chúng ta phải cơ bản chấm dứt đại dịch AIDS vào năm 2030. Chiến lược đã đưa ra 18 chỉ tiêu cụ thể và 11 nhóm giải pháp để thực hiện. Như vậy, chúng ta cần đặc biệt chú trọng các giải pháp như: Thứ nhất, tăng cường hơn nữa sự quan tâm, của các cấp ủy đảng, chính quyền, sự phối hợp liên ngành và sự tham gia của cộng đồng vào công tác phòng, chống HIV/AIDS.

Thứ hai, tiếp tục triển khai mở rộng hơn nữa các giải pháp chuyên môn liên quan đến xét nghiệm, dự phòng, can thiệp giảm hại, điều trị, theo dõi, giám sát, đánh giá dịch.

Thứ ba, chúng ta phải bảo đảm các điều kiện cơ bản để thực hiện được các mục tiêu đã được giao, trong đó có vấn đề về hệ thống, tổ chức cán bộ, cơ chế tài chính phù hợp. Tăng cường hơn nữa nguồn tài chính trong nước, liên quan đến ngân sách trung ương, địa phương, đặc biệt là bảo hiểm y tế.

Chúng tôi tin với những nỗ lực, cùng với sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế thì chúng ta sẽ sớm kết thúc dịch AIDS và hoàn toàn có cơ hội chấm dứt AIDS tại Việt Nam vào năm 2030.

Hiện mức độ lây nhiễm HIV trong nhóm nam quan hệ đồng tính ngày càng gia tăng và đang ở mức báo động, xin ông cho biết chúng ta sẽ làm thế nào để giảm số người nhiễm trong nhóm này?

PGS. TS Nguyễn Hoàng Long: Trong thời gian qua, tỉ lệ nhiễm HIV trong các nhóm nguy cơ khác đều đã giảm, nhóm nghiện chích ma túy trước đây là gần 30% thì hiện giảm còn 10%, lao động tình dục giảm 2/3, riêng nhóm nam quan hệ tình dục thì gia tăng đáng quan ngại. Theo dõi khoảng 6 năm, 7 năm trước thì tỉ lệ dương tính khoảng 3% đến 4%. Tuy nhiên, hiện có những địa phương tăng lên đến 15%. Đáng lưu ý trong số tăng này, số lượng nhiễm mới trong vòng 1 năm chiếm tỉ lệ tương đối cao.

Để khắc phục tình trạng này, chúng ta cần phải tăng cường truyền thông trong nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới, đặc biệt là nhóm học sinh, sinh viên, các khu công nghiệp, lao động.

Chúng ta cũng cần tăng cường các biện pháp giảm tác hại, dự phòng lây nhiễm. Trong đó, chú trọng dịch vụ PrEP. Đây là dịch vụ mang lại hiệu quả rất cao đối với nhóm quan hệ tình dục đồng giới. Nếu chúng ta làm tốt được việc này thì có thể giảm tới 95% đến 98% khả năng lây nhiễm cho những người sử dụng dịch vụ.

PrEP được chúng ta triển khai tại một số tỉnh, thành trên từ năm 2017, đến nay đã có 13.000 người tham gia dịch vụ này. Đây là một giải pháp rất đặc hiệu và chúng tôi sẽ tập trung mở rộng mô hình hơn nữa trong thời gian tới, để can thiệp ngăn chặn tình trạng lây nhiễm trong nhóm quan hệ tình dục đồng giới.

Bên cạnh đó, chúng ta cũng tăng cường hơn nữa các giải pháp phân phát bơm kim tiêm, bao cao su, đặc biệt là mở rộng xét nghiệm HIV và đưa vào điều trị ngay để ngăn chặn nguồn lây trong nhóm này.

Hiện nay, dịch COVID-19 vẫn đang diễn biến phức tạp trên toàn thế giới. Có ý kiến cho rằng, dịch COVID-19 sẽ làm ảnh hưởng đến kết quả phòng, chống HIV/AIDS tại Việt Nam. Xin ông cho ý kiến về nhận định này?

PGS. TS Nguyễn Hoàng Long: Tại Việt Nam, dịch COVID-19 đã được khống chế nên ảnh hưởng không quá lớn. Thời điểm dịch COVID-19 bùng phát đã làm ảnh hưởng đến công tác phòng, chống HIV/AIDS. Chẳng hạn như dịch làm giảm số người đến xét nghiệm tại các cơ sở y tế, việc cung ứng các dịch vụ dự phòng cũng bị ảnh hưởng nhiều. Một số cơ sở điều trị bị cách ly toàn bộ khiến cho việc điều trị gặp khó khăn. Thậm chí có một số bệnh nhân cũng bị cách ly…nên đã ảnh hưởng nhiều đến công tác phòng, chống HIV/AIDS.

Bên cạnh đó, một loạt các hoạt động khác liên quan cũng bị ảnh hưởng như: công tác tập huấn, kỹ thuật, công tác giám sát bị đình trệ, không thực hiện được… Tuy nhiên, Cục Phòng, chống HIV/AIDS đã đưa ra những giải pháp kịp thời. Chúng tôi đã mở rộng xét nghiệm HIV tại cộng đồng, tự xét nghiệm HIV mà không cần đến cơ sở y tế, triển khai cấp phát thuốc Methadone nhiều ngày cho bệnh nhân, mở rộng cấp phát thuốc ARV 3 tháng cho người nhiễm thay vì cấp 1 tháng.

Ngoài ra, chúng tôi cũng đã có hướng dẫn chi tiết cho những cơ sở điều trị bị cách ly vì COVID-19 để bảo đảm việc thăm khám, điều trị cho người bệnh…

Những giải pháp trên đã khắc phục cơ bản các ảnh hưởng của dịch COVID-19 đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS. Nhờ những phản ứng kịp thời, Việt Nam là một trong những quốc gia được thế giới đánh giá là có phản ứng nhanh, kịp thời và hiệu quả trong bối cảnh COVID-19 và Việt Nam được mời trao đổi kinh nghiệm với các nước trên thế giới về ứng phó với COVID-19 trong công tác phòng, chống HIV/AIDS.

Xin ông cho biết, Tháng Hành động quốc gia phòng, chống HIV/AIDS năm 2020 sẽ có những hoạt động nào nổi bật? Ông muốn chia sẻ thông điệp gì nhân Tháng Hành động?

PGS. TS Nguyễn Hoàng Long: Tháng Hành động quốc gia năm nay rất đặc biệt, đánh dấu mốc 30 năm phòng, chống HIV/AIDS và hướng tới mục tiêu đặt ra là chấm dứt dịch AIDS vào năm 2030. Do đó, chủ đề của Tháng Hành động năm nay là nhìn lại một chặng đường 30 năm để hướng đến mục tiêu chấm dứt AIDS tại Việt Nam, nhằm đánh giá lại những thành công, khó khăn, vướng mắc, kinh nghiệm trong công tác phòng, chống HIV/AIDS.

Trong năm nay, do bối cảnh COVID-19, nên chúng ta có thay đổi trong công tác tổ chức. Thay vì tổ chức tại chỗ, Lễ mit tinh quốc gia kết hợp với tổng kết 30 năm phòng, chống AIDS trực tuyến sẽ được tổ chức đúng vào Ngày Thế giới phòng, chống AIDS (1/12).

Bên cạnh đó, tổ chức các đoàn phóng viên đi thực địa, gặp mặt báo chí, tặng quà cho trẻ bị nhiễm và ảnh hưởng bởi HIV, sự kiện ghi nhận những đóng góp của các tổ chức cộng đồng và một loạt sự kiện khác để ghi lại dấu ấn 30 năm ứng phó với HIV/AIDS và hướng tới chấm dứt đại dịch AIDS tại Việt Nam.

Xin trân trọng cảm ơn ông!
Top